Có một
người làm thơ đã viết một vài câu thơ tình cờ để tặng một tập thơ đọc cũng rất
tình cờ của một nhà thơ mà cuộc gặp gỡ cũng thật.. tình cờ vô định trong cõi
đời này:
“ ghé chơi qua chốn mịt mù
thấy ngôn ngữ quạnh thiên thu ngỡ gần
một bước chân thấy phân vân thấy trang sách
triết tần ngần cõi xa
hai chân bước chợt nhạt nhòa
vần trên câu sáu nở hoa nụ đầu
vế sau câu tám ở đâu
lạc vào cõi sắc mấy màu tịnh
không
soi gương râu tóc bềnh bồng
hỏi chàng thi sĩ có trong mộng hờ?
câu vấn câu đáp lững lơ
thấy trường giang cuộn mấy bờ dương
gian”
Đọc thơ Hải Phương, thấy ngôn ngữ thơ
như vờn quanh chúng ta một điệu khiêu vũ mà thân thể dường bất động đứng yên
một chỗ. Sao lại đứng yên mà khiêu vũ được ? Bởi vì, trong tâm tư , hình như cái có và cái không
trộn lẫn, chân đi mà tưởng như đứng, óc nghĩ
mà tưởng như không mảy may suy tư và cảm giác là những nỗi bâng khuâng của
mê hoặc bất định.
Tôi đã nghĩ như thế và chợt giật mình,
tự hỏi. Tôi đọc thơ theo kiểu nào? Phạm Công Thiện hay Bùi Giáng..? Và tôi có
giả vờ làm người khách lạ đi tìm thi
tứ…
Không, tôi đọc theo kiểu của tôi, không làm cho khác đời và
cũng chẵng cầu kỳ bí hiểm.Thấy gì nói nấy, cảm gì bộc lộ nấy. Ở thơ Hải Phương,
tôi thấy thơ có lúc bàng bạc phân cách giữa chữ và nghĩa. Nhưng, ở phần cảm xúc
là những bước chân kéo đi xa, thật xa đến mịt mù. Mỗi một thi sĩ có phương cách
diễn tả riêng. Cái riêng ấy lột tả cái phong thái để thành một căn cước cho thi
sĩ. Đọc câu thơ đầu, đã có cảm giác của một danh tánh, đoc câu thơ thứ hai đã
thấy một chân dung. Ở Hải Phương, là ngôn ngữ cũ nhưng hình tượng mới, là ngôn
ngữ có phấn son nhưng trang điểm nhẹ nhàng. Thơ là những nét vờn của cuộc sống,
của những cảm giác thoáng qua trong những giây phút tình cờ tìm kiếm được những
mơ mộng đã từ lâu tích chứa.
Như bài thơ” Chân dung mùa xuân và biển”.
“Tóc
xao vừa độ nắng hong
gió hiu hiu đủ phiêu bồng mái hiên
liềm trăng lục bát nghe thèm
trầm hương cỏ mượt môi em dậy thì
nét mày vẽ một đường thi
tuyệt chiêu em nước cờ đi qua thành
mềm môi cắn một làn ranh
nụ hôn vỡ vụn tan nhanh miếng sầu
thắp lòng tĩnh lặng trước sau
đường cong biển dội trộn màu chân dung
bỗng dưng lại bỗng không dưng
bỗng dưng bỗng nửa lưng chừng nhớ em
mở trang vô tự ra xem
thấy trong lá biếc biển đêm dịu dàng “
Đọc xong những câu lục bát trên, có
người hỏi tôi. Thơ nói gì vậy? Tôi ngớ ra và chỉ biết nói thơ không bao giờ
giải nghĩa được.Tôi chỉ yêu thơ, khoái thơ nhưng bình thơ thì đành chịu. Bởi vì
tôi thấy bất lưc để dùng ngôn ngữ là một thứ hữu hình để phác họa cái cảm giác là một loại vô hình và ai hiểu sao thì hiểu.
Thế thì, cảm giác của tôi khi đọc những
câu thơ trên ra sao? Chỉ là những
liên tưởng nối tiếp nhau, từ một hình dạng người nữ, có nét thực mà cũng có nét
ảo, gợi lại một không gian nào kỳ bí và một thời gian nào có thể gần mà có thể
là vạn dặm để trong bỗng dưng nỗi nhớ thấy từng trang vô tự của lá biếc biến
đêm. Đó là cảm nhận của riêng tôi, mà
người khác có thể không cảm nhận ra. Những câu thơ , tả người nhưng để phác họa tình cảm, để trong
những đường nét như có như không ấy, ngâm chứa một thế giới riêng của những nỗi
niệm yêu thương bàng bạc. Và, trong một sát na” bỗng dưng lại bỗng không dưng/
bỗng dưng bỗng nửa lưng chừng nhớ em/mở trang vô tự ra xem/thấy trong lá biếc
biển đêm dịu dàng.Dù là trang vô tự, vẫn thấy biển dịu dàng của bóng đêm.
Hải Phương thường viết về biến. Ở biến,
có cuống ca. Ở biển, có tháng giêng xanh tình cỏ biếc. Ở biến, có nghe vời vợi
vỗ khuya. Ở biển. Tiếng em vọng âm rền tiền thân. Những bài luc bát liên tiếp nhau, để biển cả thăm thẳm nỗi niềm, để trùng dương
cứ thầm thì một điệu ngữ ngôn của thuở nào đất trời còn hoang sơ của cuộc nhân
sinh còn nhiều gót chân đi lạc.
Thơ Hải Phương từ :
” mùa xuân êm
biển hư vô/ triều con sóng vỗ bờ xô cát bày của ‘ Cuồng ca biến và em” đến:”
Biển buồn trời cũng mây bay/ cơn mưa tinh thể đất say điệu mình/ đất trời cứ
mãi làm thinh/ mà sao cỏ biếc xanh tình tháng giêng của “ Mà sao cỏ biếc xanh
tình tháng giêng rồi:Mầu trăng động vỡ càn khôn/ môi em động vỡ nụ hôn dậy thì/
thiên thu động vỡ có khi/ tóc em gió rối chân đi lạc lìa/ nghe vời vợi
biển vỗ khuya/ hồn ta động vỡ cồn chia bãi bày rồi:” qua đây thấy lạ con đường/
hai vai quảy gánh vô thường mộ xưa/ mùi trăng đọng vũng cơn mê/ bước chia cố xứ
neo về mình ện/ tiếng khô đá nẻ nhẹ tênh/ tiếng em biển vọng âm rền tiền thân.
Rồi:” Bỏ ta ơi bỏ người ta/ bỏ mây tứ xứ em tà áo bay/ bỏ hôm trước bỏ ngày
bay/ rừng phơi lá nõn biển bày biện em”.
Những câu thơ mở ra những hình ảnh. Ý và
tình, tình và ý, chen lẫn nhau để gián tiếp nói với ngôn ngữ của những sợi đan
cảm xúc, vang lên nhẹ nhàng và như chứa chan ở trong những dung lượng vô bờ của
nỗi niềm dàn trải. Biển có nói gì
đâu/ ngoài điệu sóng ru, ngoài màu xanh thẫm thẳm của chiều sâu tận cùng chẳng
bao giờ đụng đáy
Có người nói thơ sao mơ hồ và đầy những
ngôn ngữ ít có âm hưởng đời thường
trong thi phẩm Hải Phương. Có thể đó là một lời phê phán với người nầy nhưng
lại là biểu tỏ khen ngợi với người kia. Ở trong những từ có thể gọi là sáo ngữ
ấy trong cảm nhận này lại là những vòng âm mở ra những mảnh trời u hiến với tâm
thức kia.
Riêng với tôi, tôi cảm nhận được trong sự mơ hồ một đời sống nào gần
cận lắm, lãng mạn và đầy thiết tha cửa những trái tim dồn dã nhịp đập thương
yêu. Chẳng sao , nếu có ai tô son điểm phần cho ngôn ngữ. Chỉ xin một
điều, có cảm nghĩ thực của cuộc sống thực chứ chẳng phải là một màn kịch mà
người thủ vai cứ hững hờ trong lớp áo vô hồn
Thơ lục bát, đã có một quá trình sáng
tạo từ bao nhiêu thế kỷ, đã qua những khuôn khổ như một gắn bó vô hình làm
thành những cõi thơ khuôn mẫu. Rất khó cho những dụng công đổi khác. Câu sáu
câu tám, mở ra và khép lại. Câu tám câu sáu,khép lại và mở ra. Thi sĩ, như
người chọn lưa một cuộc thách thức. Làm sao để tạo cho riêng mình một vóc dáng.
Không phải của Nguyễn Du nàng Kiều, không phải của Tú Xương “ Sông lấp. Mà cũng
không phải Cung Trầm Tưởng, Trần Đức Uyên, Hoài Khanh ,.. thuở nào. Mà phải riêng vóc dáng Hải Phương. Trong cố
công ấy, tôi đã thấy trong ngôn ngữ và vần điệu.Những chủ ý để bắt người đọc
chia sẻ với người làm thơ những tâm tình, có thể là chung của những người đam
mê và nhiều mộng ước. Thơ như những ngọn củi, nhen vào bếp lửa nhân sinh để
trong hơi ủ cuộc đời chia với nhau niềm thiết tha nồng ấm
Người thơ nói với người thơ? Có phải là
những chung mang của nghiệp duyên phải gánh. Đọc thơ bạn, để thấy gần gũi hơn
những câu lục bát, để thấy không gian gần lại một vòng tay. Hải Phương đoc thơ
Hoàng Xuân Sơn:
“đất buồn đất hỏi han cùng.
Trời buồn trời lại bảo bùng hao hư
Đọc
câu lục bát tàn dư
Đêm qua mất ngủ còn như ngó ngày
Phiên
đời vụn nhỏ lòng tay
Trái tim âm bản vàng bày lửa nung
Đất
trời luc địa nhớ nhung
Con chim nhỏ hát tiếng khùng điên
rong
Vì
em bữa trước ra bông
Bữa nay ra nụ phiêu bồng tiền
thân.”
Trời buồn đất buồn nên câu lục bát cũng
tạo thành đêm mất ngủ. Vì sao?
Bởi vì:” vì em bữa trước ra bông/ bữa
nay ra nụ phiêu bồng tiền thân.
Câu
trả lời đơn giản mà phức tạp, tưởng lời cạn mà ý sâu.Thơ mở ra những liên tưởng
nhưng cũng đóng lại những luận cứ. Thơ như bơi trong dòng nhân sinh mà tưởng
như chân dẫm trên bờ cạn rong chơi.( Không hiểu thị sĩ có chủ ý diễn tả như thế
không? Tôi không rõ. Nhưng là người đọc tôi đã cảm thấy như vậy)
Hải Phương làm thơ cho những người bạn
Phan Thiết, những người đã sinh ra ở bến sông Cà Ty, núi Cú và Tà Dôn. Thơ gửi
Hoài Khanh:
“
ngày về mở cửa phù vân
cài then thiên cổ mưa gần nắng xa
bút hoa hứng trận phong ba
miếng môi ngậm cứng vành tà huy
không
mở
trang vô tự phiêu bồng
mái hiên ngôn ngữ mái lòng thênh
thanh”
Thơ
gửi Đài Nguyễn Vu:
“ người về cỏ rối dưới chân
chén thinh không cạn bước ngần ngại
qua
sông
Cà Ty trận mưa và
phố lầu Phan Rí rộng tà áo bay
thiền
sư thả còn diều mây
trang kinh niệm đến đoạn nầy đứt
giây
và
thơ gửi Từ Thế Mộng;
“ biển xưa sóng vỗ cồn bày
bến bên kia bãi bên này rộng rinh
biết
đâu rượu uống một mình
môi cay nhín gởi ngọn tình ra roi
mở
trang vô tự ra coi
môi khuya thắp ngọn lửa cời bếp
xanh.”
Dù thơ viết cho mình hay gửi cho người,
Hải Phương vẫn là một người tự may cho mình một tà áo thơ để khoác lên tâm tư
những nỗi niềm dàn trải từ cuộc sống.
Tôi đoc thơ ông, như những bước chân đi
tìm lại những bóng nắng rơi xưa cũ, những tâm tình của một thuở nào tưởng đã
quên mà gợi nhớ đến lạ lùng. Nếu có ai thấy tôi viết như trong cơn đồng thiếp
thì cũng bỏ qua cho, bởi khi đọc thơ có khi mình đã quên lãng cả chính mình,
thân phận mình.
Đọc thơ Hải Phương, là để du hành vào một cuộc lữ mà hai chữ có
không, cũng như mê và tỉnh chỉ là những ý niệm mơ hồ của ngữ ngôn phù ảo.
No comments:
Post a Comment